Nghiên cứu sử dụng
có hiệu quả và tiết kiệm
năng lượng l?
? một chính sách của bất kể quốc gia nào, kể cả trong lúc không
có hay có khủng hoảng về
năng lượng.
Việt Nam l?
? một nước đang phát triển nằm trong vùng có tiềm
năng năng lượng, với nguồn cung cấp dầu lớn, khai thác tương đối ổn định. Tuy nhiên, hàng năm vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn xăng và dầu hỏa.
Mặt khác,
theo tính toán của các chuyên gia về
năng lượng, với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,1-7,2%/năm (2001- 2020) nhu cầu điện 201 tỷ kWh (năm 2020) sẽ lên tới 327 tỷ kWh (năm 2030), trong khi đó, huy động cả nước sản xuất
năng lượng nội địa tối đa tương ứng cũng chỉ được 165 tỷ kWh và 208 tỷ kWh.
Như vậy, đến năm 2020 theo phương án cơ sở, trong nước thiếu tới 36 tỷ kWh và đến năm 2030 thiếu gần 119 tỷ kWh, xu hướng gia tăng sự thiếu hụt nguồn điện sẽ ngày càng gay gắt hơn và tiếp tục kéo dài trong những giai đoạn sau.
Trong khi đó, dầu mỏ và khí đốt phần lớn khai thác ở ngoài khơi, nên đầu tư khai thác cho
năng lượng tại Việt Nam gấp đôi c
ác n??ớc ở khu vực. Trong công nghiệp hoá dầu do buông lỏng quản lý nên chưa thu hút được một cách hiệu quả đầu tư nước ngoài, vẫn phụ thuộc nhiều về giá xăng và dầu hoả thị trường thế giới, số tiền thu được từ xuất dầu thô chỉ để trang trải cho nhập loại
năng lượng tinh này.
Khủng hoảng
năng lượng đang gần kề, mà Việt Nam đang phải theo đuổi mục tiêu thiên niên kỷ đã từ lâu là giải quyết mối liên hệ giữa nghèo đói-môi trường-
năng lượng. Đó là vấn đề quyết định sự thành bại trong quá trình đuổi kịp và hội nhập vào nền kinh tế tiên tiến của c
ác n??ớc khu vực và trên thế giới.
Theo đánh giá của Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia, tình hình an ninh
năng lượng của Việt Nam nặng nề hơn c
ác n??ớc khu vực vì ở trong lĩnh vực sản xuất tiêu tốn
năng lượng trên cùng một đơn vị sản phẩm nhiều gấp 1,7 lần so với c
ác n??ớc trong khu vực. Trong dân sinh mức độ tiêu thụ
năng lượng hàng năm gia tăng một cách nhanh chóng, khoảng 20% ở đô thị, 10% ở nông thôn.
Nói tóm lại, an ninh
năng lượng của Việt Nam không tách khỏi an ninh
năng lượng thế giới và khu vực, hơn thế nữa còn bị áp lực nặng hơn do các thiết bị, máy móc lạc hậu hàng mấy thế hệ- tiêu thụ
năng lượng nhiều; trong sản xuất và đời sống, người dân chưa có thói quen tiết kiệm
năng lượng. Về phía các doanh nghiệp Nhà nước, rất nhiều người vẫn còn mang nặng suy nghĩ bao cấp
năng lượng.
Tiết kiệm
năng lượng vẫn còn là lĩnh vực mới ở Việt Nam, tâm lý ngán, ngại khi phải thực hiện chương trình
năng lượng vẫn rất phổ biến ở các giám đốc doanh nghiệp quốc doanh. Họ cho rằng nếu thành công, chưa chắc đã được khen, còn như thất bại thì chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Ngoài ra, nhiều người cho rằng còn những chuyện cấp bách phải làm hơn là phải cất công tắt bớt một ngọn đèn, tiết kiệm hơn trong sử dụng điều hoà nhiệt độ. Hơn nữa, tiết kiệm
năng lượng tuy có lợi cho doanh nghiệp, nhưng lại ít khi mang lại quyền lợi trực tiếp cho cá nhân giám đốc hoặc những người có quyền quyết định trong doanh nghiệp Nhà nước.
Ở các doanh nghiệp tư nhân, vấn đề tiết kiệm
năng lượng được chú ý hơn vì họ ý thức được rằng tiền tiết kiệm được chính là tiền của họ. Theo các chuyên gia tính toán chi phí để tiết kiệm 1kWh điện rẻ gấp 2-3 lần số tiền để sản xuất 1kWh điện. Cơ chế quản lý
năng lượng hiện chưa
có hiệu quả, gây thất thoát nhiều tỷ đồng trong đầu tư, phát triển
năng lượng.
Bên cạnh đó, các quy định về vấn đề
năng lượng còn thiếu và thực thi yếu nên chưa xử lý được một cách hiệu quả các vi phạm lãng phí, chưa động viên khuyến khích những đơn vị, cá nhân có thành tích trong việc tìm ra
năng lượng mới, áp dụng tiến bộ khoa học để tiết kiệm điện trong sản xuất và tiêu dùng…Nghiên cứu sử dụng
có hiệu quả và tiết kiệm
năng lượng l?
? một chính sách của bất kể quốc gia nào, kể cả trong lúc không
có hay có khủng hoảng về
năng lượng.
Việt Nam là nước có mức sử dụng
năng lượng thấp nhất, nhưng trong quá trình sản xuất
năng lượng và sử dụng
năng lượng đều có tổn thất
năng lượng cao và hiệu quả sử dụng thấp, lãng phí
năng lượng còn nhiều. Do đó, chương trình sử dụng
năng lượng
có hiệu quả và tiết kiệm phải là quốc sách, có cơ chế thích hợp để thực hiện chương trình này.
Điệp Lưu
Nâng tỷ lệ
năng lượng tái tạo lên 20% tổng cung
năng lượng vào năm 2030
Chính phủ đặt mục tiêu các nguồn
năng lượng tái tạo sẽ chiếm 15 – 20% tổng cung
năng lượng sơ cấp đạt vào năm 2030 và 25-30% vào năm 2045.
Nguồn bài viết : Diamond Bay Gaming Club